Để chuyển đổi năng lượng, đặc biệt là chuyển đổi nhiệt điện than sang các dạng năng lượng sạch nhằm đạt mục tiêu Net-Zero vào năm 2050, toàn ngành điện cần khoảng 499,1 – 631,0 tỷ USD trong 26 năm tới. Vấn đề nan giải là “thủ tục đầu tiên”.
Vào ngày 28/03/2024, Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) tại Việt Nam phối hợp với Viện Năng lượng Việt Nam (IOE) tổ chức hội thảo “Đánh giá các kịch bản đưa nhiệt điện than tại Việt Nam về mức phát thải ròng khí nhà kính bằng “0” vào năm 2050”.
Đại diện Thường trú của UNDP tại Việt Nam, Bà Ramla Khalidi cho biết UNDP và Viện Năng lượng Việt Nam (IOE) đã thực hiện một nghiên cứu để đánh giá các kịch bản chuyển đổi năng lượng của các nhà máy nhiệt điện than ở Việt Nam, có tính đến chi phí và lợi ích trong quá trình chuyển đổi.
“Nghiên cứu này dự kiến sẽ giúp xây dựng các đề xuất khả thi về mặt tài chính cho việc giảm dần năng lượng hóa thạch, hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng của các nhà máy nhiệt điện”, bà Ramla Khalidi xác định.
Quang cảnh hội thảo đưa nhiệt điện than về mức phát thải ròng khí nhà kính bằng “0” (Ảnh: Vneconomy)
Có quy hoạch điện nhưng chưa có lộ trình chuyển đổi năng lượng cụ thể cho nhiệt điện than
Ông Nguyễn Xuân Trung, đại diện Viện Năng lượng Việt Nam, cho biết ngành sản xuất điện hiện dẫn đầu về phát thải khí nhà kính, chiếm 29,08% tổng phát thải khí nhà kính cả nước. Trong Chiến lược Biến đổi Khí hậu, để đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, ngành năng lượng sẽ phải cắt giảm khoảng 32,6% lượng khí phát thải nhà kính, trong đó, lĩnh vực nhiệt điện phải cắt giảm 43%.
Tính đến cuối năm 2022, tổng công suất lắp đặt nguồn điện nhiệt điện than của cả nước khoảng 25.312 MW, chiếm 32,5% trong tổng công suất điện của cả nước.
Trong Quy hoạch Điện 8 đã đề ra định hướng chỉ thực hiện tiếp các dự án đã có trong Quy hoạch điện 7 điều chỉnh và đang đầu tư xây dựng đến năm 2030, cùng lúc, sẽ thực hiện chuyển đổi từ nhiên liệu than sang sinh khối và amoniac với các nhà máy đã vận hành được 20 năm, dừng hoạt động các nhà máy có tuổi thọ trên 40 năm nếu không thể chuyển đổi nhiên liệu.
Mặc dù định hướng Quy hoạch điện 8 đề ra như vậy, nhưng đến nay trong các bước thực hiện vẫn chưa có lộ trình chuyển đổi cho ngành nhiệt điện than, nên cần sớm xây dựng lộ trình cụ thể. Lộ trình chuyển đổi sẽ bao gồm danh mục các nhà máy cần chuyển đổi, phương án và thời gian chuyển đổi, nhu cầu tài chính, phương án xử lý nhân sự và tác động môi trường.
Về tài chính, ông Nguyễn Xuân Trung ước tính tổng chi phí đầu tư để tiến tới net-zero vào năm 2050 tại Việt Nam cần từ 533,9 đến 657,8 tỷ USD trong 26 năm tới. Trong đó, đầu tư cho nguồn điện và chuyển đổi điện cần khoảng từ 499,1 đến 631 tỷ USD.
Nhiều nhà máy nghiệt điện than phải đóng cửa nếu không chuyển đổi năng lượng
Ông Vũ Văn Nam, cũng đại diện Viện Năng lượng Việt Nam, cho biết IOE đã tiến hành nghiên cứu tại các nhà máy cần phải chuyển đổi sớm là Nhiệt điện Phả Lại, Nhiệt điện Cao Ngạn, Nhiệt điện Ninh Bình.
Nhà máy Phả Lại 1 thuộc diện phải đóng cửa sớm nhất trong số các nhà máy nhiệt điện than tại Việt Nam
Công ty cổ phần Nhiệt điện Phả Lại hiện có 2 nhà máy là Phả Lại 1 và Phả Lại 2. Trong đó, Nhà máy Phả Lại 1 có công suất 440 MW, đã vận hành 38 năm, đến nay, hầu hết các thiết bị đều đã xuống cấp nên tần suất xảy ra các sự cố như: bục vỡ các đường ống áp lực, rò rỉ bộ sấy không khí, lọt gió ở máy nghiền, … có chiều hướng gia tăng. Nhà máy Phả Lại 2 có công suất 600 MW, đã đưa vào khai thác vận hành 23 năm và cũng nhiều lần xảy ra sự cố tương tự trong những năm gần đây.
Nhà máy Phả Lại 2 nếu không chuyển đổi để giảm phát thải sẽ phải đóng cửa sau 17 năm tới.
Theo yêu cầu trong Quyết định 500/QĐ-TTg, Nhà máy Phả Lại 1 thuộc đối tượng phải đóng cửa sớm nhất trong số các nhà máy nhiệt điện than tại nước ta nếu không chuyển đổi ngay, với tiến độ năm 2026 phải giảm phát thải 30%; năm 2030 giảm phát thải 50% so với hiện nay và đến năm 2050 phải giảm phát thải 100%. Tương tự, Nhà máy Phả Lại 2 nếu không chuyển đổi để giảm phát thải sẽ phải đóng cửa sau 17 năm tới.
Nhà máy Nhiệt điện Cao Ngạn tại Thái Nguyên vận hành từ năm 2007
Còn Nhà máy Nhiệt điện Cao Ngạn tại Thái Nguyên có công suất 115 MW, thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, đã vận hành từ năm 2007, đến nay được 17 năm. Hiện trạng thiết bị đã cũ, hiệu suất thấp, phát thải cao, hiệu quả kinh tế thấp. Cũng theo Quyết định 500/QĐ-TTg, đến năm 2027, do đã vận hành được 20 năm, nhà máy được định hướng chuyển đổi nhiên liệu, nếu không, sẽ phải dừng hoạt động vào năm 2047.
Nhà máy Nhiệt điện Ninh Bình có công suất 100 MW, thuộc Công ty Cổ phần Nhiệt điện Ninh Bình, đã vận hành từ năm 1974, đến nay đã 50 năm, hiện thiết bị đã cũ, hiệu suất thấp, phát thải cao, hiệu quả kinh tế thấp. Trong những năm gần đây, để đảm bảo các yêu cầu về môi trường, nâng cao hiệu suất và độ tin cậy trong vận hành, Nhà máy Nhiệt điện Ninh Bình đã liên tục được đầu tư, cải tạo và nâng cấp thiết bị với kinh phí khoảng 200 tỉ đồng.
Nhà máy Nhiệt điện Ninh Bình vận hành từ năm 1974, đến nay đã 50 năm
Nhà máy hiện đang phối hợp với Ngân hàng Thế giới (World Bank) thực hiện nghiên cứu hỗ trợ kỹ thuật chuyển đổi nhiên liệu (đốt kèm Biomass), sử dụng năng lượng sạch và bền vững. Tuy vậy, theo Quyết định 500/QĐ-TTg, nhà máy tiếp tục được định hướng chuyển đổi nhiên liệu, nếu không, sẽ phải dừng hoạt động trong thời gian tới không xa.
Nguồng tài chính cho chương trình chuyển đổi năng lượng quốc gia
Thủ tướng Chính phủ cũng đã ra Quyết định 1009/QĐ-TTg ngày 31/8/2023 phê duyệt “Đề án triển khai Tuyên bố chính trị thiết lập quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (Đề án JETP). Nhằm hỗ trợ Việt Nam chuyển đổi carbon thấp trong ngành năng lượng thuộc Đề án (JETP), ông Koos Neefjes – Chuyên gia của UNDP đã giới thiệu Kế hoạch huy động nguồn lực (RMP) và các gói tài chính cho chuyển đổi nhà máy nhiệt điện than (CFPP).
Ông Koos Neefjes nói về dự án ưu tiên đầu tư tài chính trong RMP, có tổng giá trị tài trợ được đề xuất là 321,6 triệu USD. (Ảnh: Vneconomy)
Ông Koos Neefjes xác nhận: “Các định chế tài chính phát triển quốc tế đã đồng ý huy động ít nhất 7,75 tỷ USD để cung cấp các khoản vay cho các dự án chuyển đổi năng lượng tại Việt Nam”. Trong đó, dự án ưu tiên đầu tư tài chính trong RMP, có tổng giá trị tài trợ được đề xuất là 321,6 triệu USD.
Nguồn tài chính cho các khoản vay ưu đãi là 2,75 tỷ USD, sẽ được giải ngân thông qua: ADB, EIB, AFD, KFW. Trong đó, các khoản vay nợ chính phủ hoặc có bảo lãnh chính phủ là 2,18 tỷ USD. Các tổ chức tài chính thương mại sẽ cho vay trên 5 tỷ USD thực hiện theo các điều khoản thương mại nhưng sẽ bao gồm các mục tiêu phát triển.
Các loại dự án đầu tư được hỗ trợ theo kế hoạch RMP và gói tài chính CFPP:
(1) Chuyển đổi sản xuất điện than;
(2) Phát triển ngành năng lượng tái tạo;
(3) Truyền tải điện và lưu trữ năng lượng;
(4) Sử dụng hiệu quả năng lượng;
(5) Chuyển đổi năng lượng trong lĩnh vực giao thông vận tải;
(6) Đổi mới sáng tạo, phát triển và chuyển giao công nghệ.
“Chủ sở hữu các nhà máy điện than cần phải làm việc với các tổ chức tài chính cụ thể, trên cơ sở đánh giá ban đầu về các lựa chọn của Viện Năng lượng IoE và thông qua hỗ trợ kỹ thuật để xác định cơ hội phát triển các dự án có thể vay vốn”, ông Koos Neefjes khuyến nghị thêm.
Cũng cần phải lưu ý rằng số tiền đầu tư cho chuyển đổi năng lượng nói chung và ngành điện quốc gia nói riêng, để đạt mục tiêu Net-Zero vào năm 2050, chiếm từ 140% đến 180% GDP năm 2022 của Việt Nam. Đây là bài toán khó về kinh tế vĩ mô dành cho các cơ quan quản lý nhà nước về tài chính và năng lượng quốc gia.
Việt Nam đang nỗ lực xây dựng cơ chế, chính sách pháp lý và đổi mới công nghệ để tăng cường khả năng chuyển đổi năng lượng và sử dụng năng lượng tái tạo. Việt Nam rất hoan nghênh các định chế tài chính quốc tế và sẵn sàng tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư triển khai các dự án chuyển đổi và tái tạo năng lượng, nhằm góp phần vào sự phát triển kinh tế bền vững của đất nước.
(Nguyễn Xanh tổng hợp)